Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế

Rate this post

📢📢📢 Tải Free Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế mình có để nút tải dưới cuối bài sau khi tham khảo xong các bạn có thể download ngay luôn nhé. Thật trùng hợp vì bài viết sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn sinh viên một loạt tài liệu cơ bản cụ thể là về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoàn toàn xuất sắc mà các bạn không nên bỏ qua. Nguồn tài liệu mình đã tiến hành triển khai như là khái niệm và các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế,và tiếp theo là vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và sự điều chỉnh của pháp luật đối với loại hợp đồng này… Hy vọng nguồn tài liệu này sẽ cung cấp được cho các bạn thật nhiều kiến thức và kinh nghiệm để các bạn có thể có thêm thông tin hữu ích để nhanh chóng hoàn thành bài khoá luận.   

Ngoài ra hiện nay bên mình có nhận viết thuê khoá luận với đa dạng đề tài và các ngành nghề phổ biến nhất hiện nay, hình như bạn đang gặp trục trặc trong vấn đề làm một bài khoá luận vì bạn chưa có thời gian, hoặc yêu cầu của giáo viên đưa ra khó hơn so với năng lực thật sự của bạn. Không sao cả, mọi vấn đề của bạn sẽ được giải quyết trong tích tắc chỉ cần bạn nhanh tay liên hệ ngay đến viết thuê khoá luận của chúng tôi qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được tư vấn báo giá làm bài trọn gói và hỗ trợ lựa chọn đề tài phù hợp nhé.

1.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

1.1.Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 chưa định nghĩa về hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế trước hết là hợp đồng mang đầy đủ những đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận  giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán[1].

Đồng thời, hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế còn mang các đặc trưng cơ bản của hợp đồng thương mại quốc tế. Tính quốc tế của quan hệ chính là điểm khác biệt của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Tính quốc tế có thể được quy định khác nhau trong pháp luật của các quốc gia, pháp luật quốc tế nhưng tựu chung lại đó là các yếu tố nước ngoài liên quan đến quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của các chủ thể, liên quan đến nơi xác lập quan hệ hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng.

XEM THÊM :Báo Giá  Viết Thuê Khoá Luận Tốt Nghiệp 

HĐMBHHQT mang những đặc trưng cơ bản của hợp đồng mua bán tài sản, tức là có sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua bán, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, có đền bù. Về bản chất, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa ít nhất là hai bên. Sự thỏa thuận này có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản là người bán và người mua. Người bán và người mua có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc cũng có thể là Nhà nước. Nội dung của hợp đồng là toàn bộ nghĩa vụ của các bên xung quanh việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa từ người bán sang người mua, xung quanh việc làm thế nào để người bán lấy được tiền và người mua nhận được hàng… Xét về tính chất pháp lý, hợp đồng mua bán tài sản là loại hợp đồng song vụ, có bồi hoàn và là hợp đồng ước hẹn. Những đặc trưng này là điểm phân biệt giữa hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế với các loại hợp đồng được ký kết trong các lĩnh vực khác của thương mại quốc tế như dịch vụ, đầu tư… Luật pháp của các nước trên thế giới đều có quan điểm thống nhất với nhau về những điểm nêu trên.

HĐMBHHQT được thực hiện dưới các hình thức hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu tài sản cho một bên khác gọi là bên mua một tài sản nhất định gọi là hàng hóa; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. Định nghĩa trên nêu rõ bản chất của hợp đồng này là sự thỏa thuận của các bên ký kết.

Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế các chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là bên bán và bên mua. Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để đổi lại, bên mua phải trả một đối giá cân xứng với giá trị đã được giao.

Ðối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này trở thành hàng hóa. Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hóa (chuyển chủ sở hữu). Ðây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê, mượn tài sản (vì hợp đồng thuê mượn không tạo ra sự chuyển chủ sở hữu), so với hợp đồng tặng cho (vì hợp đồng tặng cho không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi).

Tính chất quốc tế của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu không giống nhau tùy theo quan điểm của luật pháp các nước.

Do đó, để xác định một hợp đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc tế, các luật gia thường dựa trên một số tiêu chí như sau:

Thứ nhất, hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của bên mua và bên bán được đăng ký tại hai quốc gia khác nhau.

Thứ hai, hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa phải được giao tại một nước khác với nước mà hàng hóa đó đang được tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng được ký kết.

XEM THÊM : 149+ Đề Tài Khoá Luận Tốt Nghiệp Quản Trị Kinh Doanh

Thứ ba, được coi là hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế khi:

+ Có sự vận chuyển hàng hóa là đối tượng của hợp đồng từ lãnh thổ của quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác.

+ Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận không được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia.

+ Sự giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận đã được hoàn thành.

+ Các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc là việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các  bên ký kết được lập ở những nước khác nhau.

Nếu các bên ký kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cứ trú của họ. Vấn đề quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

Pháp luật một số nước Châu Âu, khi xác định tính chất quốc tế của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý:

– Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo ra sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế.

– Theo tiêu chuẩn pháp lý,một hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch của các bên, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, đồng tiền thanh toán…

Cơ sở lý luận mua bán hàng hoá quốc tế theo quy định pháp luật về hợp đồng của Pháp, một hợp đồng mua bán hàng hóa mang tính quốc tế khi các bên ký hợp đồng này ở các nước khác nhau, hoặc quá trình đàm phán hợp đồng diễn ra ở một nơi khác với ký kết hợp đồng đó, hoặc có một khoản nộp quốc tế, dịch vụ chuyển khoản hay chuyển hàng hóa từ một nước này đến một nước khác, chung quy lại một hợp đồng được gọi là hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế khi nó bao hàm các điều khoản gắn liền với nhiều hệ thống luật.

Đối với Việt Nam, khái niệm về hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế chưa được quy định chính thức trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào. Tuy nhiên, trong Quy chế tạm thời số 4794 TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ Công thương) hướng dẫn việc ký kết hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế hay còn gọi là HĐXNK, trong đó đưa ra ba tiêu chuẩn để hợp đồng mua bán được thừa nhận là hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, đó là:

Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau.

Thứ hai, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển từ nước này qua nước khác.

Thứ ba, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên ký hợp đồng.

Khái niệm và cách hiểu này đã được thừa nhận trong thực tiễn hoạt động MBHHQT của Việt Nam trong nhiều năm. Tuy nhiên, quy định trên khi áp dụng vào thực tiễn hoạt động MBHHQT bộc lộ nhiều hạn chế và không phù hợp.

Luật Thương mại Việt Nam 2005 không đặt vấn đề quốc tịch hay sự dịch chuyển của hàng hóa là đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế mà nêu cụ thể tại Điều 27 các hình thức MBHHQT được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Việc MBHHQT phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương[2]. So với các quy định của pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Luật Thương mại năm 2005 thì quy định này gián tiếp khẳng định việc không coi dấu hiệu quốc tịch của chủ thể hoặc dấu hiệu về phạm vi lãnh thổ quốc gia là căn cứ xác định hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế mà chủ yếu dựa vào tính chất của quan hệ hợp đồng. Quy định này phù hợp với thực tiễn thương mại hiện nay, đặc biệt là việc phát triển các khu chế xuất, đặc khu kinh tế, khu kinh tế mở.

1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

So với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế có những đặc điểm khác biệt thể hiện ở những khía cạnh sau:

  • Về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Theo pháp luật của một số nước trên thế giới (Anh, Mỹ…) hoặc theo quy định của các văn bản pháp luật quốc tế về MBHHQT (Công ước Lahay 1964, Công ước Viên 1980…) thì chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là các thương nhân có trụ sở ở các quốc gia khác nhau. Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005, chủ thể tham gia là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau. Nếu thương nhân là pháp nhân thì thương nhân  mang quốc tịch quốc gia nơi pháp nhân được thành lập. Quốc tịch của thương nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của quốc gia mà thương nhân mang quốc tịch.

Pháp luật của các nước khác nhau thì quy định khác nhau về điều kiện chủ thể tham gia hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, theo pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới thì mọi thương nhân có đủ năng lực tài chính để chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình đều có thể trở thành chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, không kể thương nhân đó tồn tại dưới hình thức pháp nhân hay cá nhân. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chủ thể có quyền tham gia ký kết hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế có sự thay đổi theo từng thời kỳ phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại theo hướng mở rộng phạm vi chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

  • Về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Đối tượng của hợp đồng là yếu tố quan trọng nhất trong một hợp đồng mua bán hàng hóa. Không có đối tượng của hợp đồng thì không thể có một hợp đồng mua bán hàng hóa bởi vì mọi sự thỏa thuận giữa các bên tham gia hợp đồng đều nhằm đến việc chuyển quyền sở hữu đối tượng của hợp đồng từ bên bán sang bên mua và chuyển tiền từ bên mua sang bên bán. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản mà các bên mua bán với nhau đều là đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế bởi vì nếu nó không đáp ứng được những yêu cầu mà pháp luật đặt ra thì sự thỏa thuận giữa các bên là bất hợp pháp và hợp đồng đó bị vô hiệu.

Đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn được các điều kiện sau đây:

– Đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế phải được phép mua bán giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt nam và của pháp luật nước ngoài có liên quan.

– Đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế phải xác định, tồn tại thực tế và có thể dịch chuyển được từ nước này sang nước khác hoặc từ thị trường nội địa vào khu chế xuất. Điều kiện này tuy không được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật nhưng chúng ta có thể suy ra từ bản chất và đặc điểm của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế. Như vậy, bất động sản thì không thể trở thành đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế hoặc các loại hàng hóa đặc thù như: Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ; tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí; điện năng[3].

Cơ sở lý luận mua bán hàng hoá quốc tế đối với mỗi quốc gia, việc trao đổi hàng hóa quốc tế đều ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng. Do vậy, mỗi quốc gia đều có quy định về mặt hàng được phép mua bán với thương nhân nước ngoài. Tại Việt Nam hàng năm Chính phủ đều ban hành các văn bản điều hành xuất nhập khẩu trong đó quy định danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và các mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện.

Như vậy, hàng hóa muốn trở thành đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là những hàng hóa được phép mua bán với thương nhân nước ngoài theo pháp luật của nước bên bán và nước bên mua. Đồng thời phải là hàng hóa mà doanh nghiệp được phép kinh doanh theo ngành nghề đa dạng ký tại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

  • Về đồng tiền thanh toán

Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, các bên thường sử dụng nội tệ làm đồng tiền thanh toán. Trong hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế thì đồng tiền thanh toán do các bên thỏa thuận nhưng thông thường là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên. Theo quy định của Chính phủ về quản lý ngoại hối tại Pháp lệnh ngoại hối thì đồng tiền chung của các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu – EU (ví dụ đồng Euro) cũng được coi là ngoại tệ. 

📖📖📖 Với những nội dung trên đây là Cơ Sở Lý Luận Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hoá Quốc Tế là nguồn tài liệu mà mình đã viết và gửi gấm đến cho các bạn cùng xem và theo dõi. Ngoài việc chia sẻ cho các bạn nguồn tài liệu này trước đây mình đã từng viết một bài 10 đề tài khoá luận ngành xuất nhập khẩu hoàn toàn hay các bạn có thể tham khảo tại website vietkhoaluan.com nhé. Và đương nhiên nếu bạn đang cần hoàn thành bài khoá luận thì tuyệt đối không bỏ xót những nội dung hữu ích còn lại mà mình sắp triển khai sau đây. 

Cơ Sở Lý Luận Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hoá Quốc Tế
Cơ Sở Lý Luận Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hoá Quốc Tế

2. VAI TRÒ CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI LOẠI HỢP ĐỒNG NÀY

2.1. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

HĐMBHHQT có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay. Vai trò của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

Thứ nhất: hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là công cụ thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ MBHHQT bởi vì bản chất của hợp đồng là sự bày tỏ và thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Thông qua hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế các bên bày tỏ và thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Thông qua hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế các bên bày tỏ mong muốn thiết lập quan hệ mua bán hàng hóa với nhau, cụ thể là bên bán đồng ý bán hàng cho bên mua và bên mua đồng ý nhận hàng và trả tiền cho bên bán theo đúng các điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận.

Thứ hai: hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là công cụ để bảo vệ lợi ích của các bên chủ thể, một hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế đƣợc thành ký kết hợp pháp có giá trị bắt buộc đối với các bên giao kết. Nếu một bên có hành vi vi phạm những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng thì bên đó phải chịu trách nhiệm vật chất trƣớc bên bị vi phạm. Mặt khác, khi có tranh chấp xảy ra hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là bằng chứng quan trọng để cơ quan giải quyết tranh chấp đƣa ra phản quyết đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan, đảm bảo quyền lợi của các bên đƣơng sự.

Thứ ba: hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là một trong những cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu.

Thứ tư: hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế cũng là công cụ để thực hiện các kế hoạch, chỉ tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.

2.2. Luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

HĐMBHHQT mặc dù được pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế quy định rất chặt chẽ, trong quá trình ký kết thực hiện cũng được các bên thỏa thuận chi tiết, nhưng dù được ký kết hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng, bao gồm tất cả những vấn đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Vì vậy, cần phải bổ sung cho hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Điều này có nghĩa là mỗi một hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế đã được ký kết là một cơ sở pháp lý quan trọng để các bên dựa vào đó xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, để các bên tự kiểm tra lại mình và kiểm tra đối tác.

Nhưng, trong thực tế lại thường xảy ra những trường hợp mà tranh chấp phát sinh giữa các bên lại không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng. Trường hợp này, các bên phải dựa vào luật điều chỉnh hợp đồng, tức là dựa vào luật được áp dụng cho hợp đồng đó để giải quyết tranh chấp. Không chỉ các bên chủ thể phải tìm hiểu luật áp dụng cho hợp đồng mua bán đã ký kết mà cả tòa án (hoặc trọng tài), được giao giải quyết tranh chấp phát sinh, cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp  dụng cho  hợp đồng đó thì mới có thể làm tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình.

Cơ sở lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế trong MBHHQT, các bên đương sự hoàn toàn có quyền tự do thảo thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế về thương mại, hợp đồng thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế và cả các án lệ (tiền lệ xét xử).

Song, điều quan trọng là ở chỗ nên chọn nguồn luật nào, làm thế nào để chọn luật thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình. Vấn đề này thật không đơn giản. Cần phải nghiên cứu tất cả các nguồn luật nói trên và cách áp dụng cũng như vai trò giá trị pháp lý của từng nguồn luật đối với hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

  • Điều ước quốc tế trong thương mại quốc tế

Khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế liên quan đến vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng, các bên ký kết hợp đồng có thể dựa vào các điều ước quốc tế trong thương mại. Do đó, điều ước quốc tế về thương mại   quốc tế là nguồn luật đầu tiên của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế điều ước quốc tế về thương mại là sự thỏa thuận bằng văn bản được các quốc gia ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ mua bán quốc tế.

Điều ước quốc tế về thương mại, xét về mặt chủ thể ký kết, có thể có hai loại là điều ước quốc tế có tính chất song phương và điều ước quốc tế có tính chất đa phương. Xét về mặt phạm vi, quy mô ảnh hưởng, có thể có điều ước quốc tế về thương mại có tính chất khu vực và điều ước thương mại có tính chất toàn cầu. Xét về mặt nội dung, có điều ước quốc tế chuẩn tắc và điều ước mang tính thực chứng.

Một trong những điều ước quốc tế quan trọng điều chỉnh lĩnh vực ký kết và thực hiện hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là Công ước Viên 1980 về Hợp đồng MBHHQT. Công ước gồm 3 phần 101 điều quy định rõ những vấn đề liên quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước là kết quả của một quá trình cố gắng, là một thành tựu đáng kể của Liên hợp quốc nhằm tiến tới việc nhất thể hóa luật về mua bán quốc tế, loại bỏ những cản trở do những quy định quá khác xa nhau trong hệ thống pháp luật quốc gia về những vấn đề liên quan  đến thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng giữa người mua với người bán.

Hiện nay, hầu hết các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đều là thành viên của Công ước này. Việt Nam đã gia nhập Công ước viên 1980 vào cuối tháng 12-2015 và Công ước chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 1-1-2017. Những điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta không ký kết, chưa ký kết, tham gia hoặc không thừa nhận thì không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể Việt Nam trong hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế. Những điều ước quốc tế này không phải là nguồn luật đương nhiên của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế do các chủ thể Việt Nam ký kết với thương nhân và pháp nhân nước ngoài. Chúng chỉ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế nếu các bên thỏa thuận dẫn chiếu tới chúng trong hợp đồng.

Đối với điều ước quốc tế về thương mại quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết và phê chuẩn chúng ta sẽ tuân thủ theo những quy định trong điều ước quốc tế;

Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.

Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng[4].

Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cơ sở lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được pháp luật Việt Nam điều chỉnh, các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm luật thực chất đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào điều ước quốc tế, các chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, dù ở các nước khác nhau, có thể sẽ có một sự hiểu biết thống nhất trong việc giải quyết nhanh chóng tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian. Song hiện nay, đối với Việt Nam thì do nước ta chưa ký nhiều điều ước quốc tế về mua bán hàng hóa trong thương mại với các nước ngoài, đặc biệt là các nước phát triển, nên điều ước quốc tế về thương mại và hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế chưa phát huy thật sự vai trò của nó.

  • Luật quốc gia

Vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể của hợp đồng có thể lựa chọn luật pháp của một quốc gia nào đó để giải quyết các quan hệ hợp đồng.Trong trường hợp này, luật quốc gia trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

Luật quốc gia của một nước sẽ được áp dụng cho hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế khi:

Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế các bên thỏa thuận trong hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, điều này có nghĩa là ngay từ lúc đàm phán ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận đưa vấn đề này vào thành một điều khoản của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, gọi là điều khoản về luật áp dụng.

– Các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế đã được ký kết. Phương pháp này thường được áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hóa mà các bên đã ký kết trước đó, vì một lý do có tính chất khách quan hoặc chủ quan (hợp đồng được soạn thảo quá đơn giản, ngắn gọn để chớp thời cơ, chính bản thân các bên ký kết chưa thấy rõ được tầm quan trọng của điều khoản luật áp dụng…) không có điều khoản về luật áp dụng. Lúc này thường là tranh chấp đã xảy ra nhưng các bên vẫn có thể đàm phán với nhau để thỏa thuận chọn luật áp dụng. Tất nhiên, trong thực tế, trường hợp này rất khó có được một sự nhất trí trong việc chọn luật của nước nào trong số luật của hai nước liên quan, song, nếu chúng ta chọn luật của nước thứ ba hoặc dẫn chiếu tới một điều ước quốc tế thì vấn đề cũng có thể được tháo gỡ.

– Khi luật đó được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan. Điều này có nghĩa là nếu trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết (hoặc thừa nhận) có quy định điều khoản về luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán quốc tế thì luật đó đương nhiên được áp dụng, các chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế không phải mất thời gian đàm phán về vấn đề đó nữa.

Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, luật nước người mua, luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có mối liên quan với hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế, chẳng hạn như luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện nghĩa vụ, như thanh toán, giao hàng…

Việc chọn luật của nước nào hoàn toàn do các chủ thể của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế tự thỏa thuận và quyết định. Khi nói luật quốc gia là nguồn luật điều chỉnh hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế không có nghĩa là toàn bộ hệ thống luật quốc gia đều được đem áp dụng, mà chỉ áp dụng những văn bản pháp luật có liên quan tới MBHHQT nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Trong hệ thống luật quốc gia, luật có liên quan tới MBHHQT là luật dân sự (civil law), luật thương mại (commercial law)…

Đặc biệt, khi pháp luật Việt Nam được chọn áp dụng để điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế nhưng ở Việt Nam, ngoài những quy định chung của luật dân sự còn có những quy tắc pháp luật được quy định để điều chỉnh riêng những mối quan hệ phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại (Luật thương mại, Luật sở hữu trí tuệ, Luật xây dựng…) Vậy chúng ta sẽ dựa vào những quy tắc nào? Chúng ta chỉ áp dụng những quy tắc đã giành riêng cho những hợp đồng đặc thù. Nói một cách cụ thể hơn, nếu luật áp dụng cho hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế là luật Việt Nam thì những quy định về hợp đồng mua bán có trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại Việt Nam 2005 sẽ được áp dụng. Ngoài ra còn có những quy định trong luật và các văn bản luật khác liên quan đến MBHHQT thuộc lĩnh vực đặc thù cũng sẽ được áp dụng.

  • Tập quán quốc tế về thương mại

Tập quán quốc tế về thương mại cũng là nguồn luật của hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế. Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được công nhận rộng rãi. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán thương mại khi thỏa mãn ba yêu cầu sau:

– Là một thói quen phổ biến, được nhiều nước áp dụng và áp dụng thường xuyên.

– Về từng vấn đề và ở từng địa phương, đó là thói quen độc nhất.

– Là một thói quen có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.

Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế thông thường, các tập quán thương mại quốc tế được chia thành ba nhóm: các tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực.

Tập quán thương mại quốc tế chung là các tập quán được nhiều nước công nhận và áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực: các điều kiện thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế tập hợp và soạn thảo (gọi tắt là Incoterms 1953 – 1980 – 1990 – 2000 – 2010) trong đó quy định các điều kiện thương mại khác nhau (như điều kiện FOB, CFR…) được rất nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng.

Các tập quán thương mại khu vực (địa phương) là các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng.

Trong các loại tập quán quốc tế về thương mại Incoterms là một loại có nội dung bao hàm nhiều nhất, phạm vi sử dụng rộng rãi nhất và ảnh hưởng lớn nhất.

Ngoài ba nguồn nói trên, thực tiễn buôn bán của các nước phương Tây còn thừa nhận cả án lệ và các bản điều kiện chung, các hợp đồng mẫu chuyên nghiệp làm nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương.

Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế trong các trường hợp:

– Khi chính hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế quy định.

– Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định.

– Khi luật thực chất (luật quốc gia) do các bên thỏa thuận lựa chọn, không có hoặc có nhưng không đầy đủ, còn khiếm khuyết về vấn đề tranh chấp, về vấn đề cần được điều chỉnh.

Trong ba trường hợp trên, tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

Tuy nhiên, cần chú ý là: vì tập quán quốc tế thường có nhiều loại cho nên, để tránh sự nhầm lẫn hoặc sự hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó. Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, các bên cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Bởi vậy, sẽ là thuận lợi nếu người bán và người mua có được thông tin đầy đủ về tập quán thương mại khi họ bước vào đàm phán ký kết hợp đông mua bán hàng hóa quốc tế.

Trên đây là toàn bộ Cơ Sở Lý Luận Cơ Bản Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hoá Quốc Tế hoàn toàn xuất sắc mà mình đã liệt kê và đồng thời gửi gấm đến cho các bạn cùng xem và theo dõi. Chúc cho các bạn sinh viên sau khi xem được bài viết này của mình sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm phong phú hơn, nếu như trong suốt quá trình mình triển khai nguồn tài liệu trên đây chưa đủ để làm hài lòng bạn hoặc bạn cần viết thuê một bài khoá luận tốt nghiệp thì ngay bây giờ đây hãy nhanh tay liên hệ ngay đến dịch vụ hỗ trợ viết thuê khoá luận tốt nghiệp của chúng tôi qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được tư vấn báo giá và hỗ trợ nhiệt tình từ A đến Z nhé.🥰

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

 [1] Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015

 [2] Điều 27 Luật thương mại 2005

 [3] Điều 2 Công ước Viên 1980

 [4] Điều 665 Bộ luật Dân sự 2015

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo